Người già Mỹ “thông minh” hơn người già Anh

Theo kết quả một nghiên cứu, người già ở Mỹ đạt kết quả cao hơn người già ở Anh trong các bài trắc nghiệm trí nhớ và chức năng nhận thức.

Đây là nghiên cứu so sánh quốc tế đầu tiên về chức năng nhận thức thực hiện trên các đối tượng người già của Anh và Mỹ. Báo cáo kết quả được công bố trên tờ BMC Geriatrics số ra ngày 25 tháng 6.

“Người ta khá ngạc nhiên khi thu được kết quả hoạt động nhận thức của người lớn tuổi Mỹ tốt hơn người lớn tuổi Anh, vì các yếu tố liên quan tới nguy cơ bệnh tim mạch phổ biến hơn ở người Mỹ, mà bệnh này thường đi kèm với suy giảm khả năng nhận thức và hoạt động trí óc,” Kenneth Langa, trưởng nhóm nghiên cứu, cán bộ giảng dạy tại đại học Michigan cho biết.

Trong thí nghiệm, Langa cùng đồng nghiệp đã so sánh dữ liệu của 8.299 người Mỹ từ 65 tuổi trở lên với 5.276 người lớn tuổi ở Anh. Các trắc nghiệm về khả năng nhận biết đã được tiến hành trên hai nhóm đối tượng này vào nhiều thời điểm khác nhau trong năm.

Sức khỏe trí tuệ của người Mỹ nổi trội hơn hẳn ở nhóm già nhất – các cụ thọ từ 85 tuổi trở lên. Xét về tổng thể, sự khác biệt trong hoạt động nhận thức của người già hai nước này là rất lớn – đạt tới khoảng cách tương đương chênh lệch khả năng giữa hai nhóm hơn kém nhau 10 năm tuổi.

Nói cách khác, trung bình, hoạt động nhận thức của những người 75 tuổi ở Mỹ tốt tương đương với những người mới chỉ 65 tuổi ở Anh.

Dữ liệu về người già Mỹ phục vụ cho nghiên cứu này được lấy từ Nghiên cứu Nghỉ hưu và Sức khỏe, được tiến hành bởi Viện nghiên cứu Xã hội U-M (ISR), do Viện Người già Quốc gia (NIA) tài trợ. Dữ liệu người già Anh được lấy từ Nghiên cứu Người già Anh quốc. Cả hai nghiên cứu đều là nghiên cứu quốc gia được tiến hành để tạo điều kiện so sánh trực tiếp về sức khỏe, của cải và thể trạng của phụ nữ và nam giới lớn tuổi.

“Nghiên cứu này là một bước quan trọng trong việc xác định những đặc điểm khác biệt mang tính quốc gia về người già và sự nhận thức,” Richard Suzman, giám đốc bộ phận nghiên cứu xã hội và hành vi của NIA. “Cần tiến hành nghiên cứu thêm nữa để xác định các yếu tố tương tác ảnh hưởng tới những thay đổi về nhận thức ở người già.”

Người già ở cả hai nước này đã tham gia khảo sát nhắc-lại–ngay-lập-tức và nhắc-lại-chậm đối với 10 danh từ chung. Đó là các từ: khách sạn, sông, cây, da, vàng, làng xóm, trẻ em, và cái bàn. Người tham gia nghe các từ này và được yêu cầu nhắc lại ngay lập tức càng nhiều từ càng tốt. Sau đó họ trả lời các câu hỏi khảo sát khác và 5 phút sau, lại được yêu cầu nhắc lại càng nhiều từ trong 10 từ kể trên càng tốt. Trong suốt quá trình phỏng vấn, người tham gia được hỏi về thứ, ngày, tháng, năm của thời điểm hiện tại. Tổng kết lại, các câu trả lời (10 điểm cho nhắc-lại–ngay-lập-tức, 10 điểm cho nhắc-lại-chậm, 4 cho việc định hướng) làm thành thang điểm 24 chấm cho hoạt động nhận thức của các đối tượng nghiên cứu.

Các nhà nghiên cứu so sánh số điểm phân loại theo từng nhóm độ tuổi, giới tính và trình độ học vấn, cũng như quốc tịch. Điểm số trung bình cho khả năng nhận thức của nhóm người già Anh ít tuổi nhất (65-74 tuổi) là 12,5; của nhóm người Anh nhiều tuổi nhất (85 tuổi trở lên) là 8,3. Con số này ở nhóm người trẻ nhất và già nhất của Mỹ tương ứng là 13,8 và 10,1.

Theo Langa, giáo sư y khoa thuộc trường Dược U-M, trình độ học vấn cao hơn và của cải nhiều hơn ở Mỹ giải thích được phần nào khả năng nhận thức tốt hơn của người Mỹ lớn tuổi.

Nhóm nghiên cứu cũng kiểm tra các điều kiện sức khỏe của người tham gia điều tra, các yếu tố nguy cơ và việc điều trị các bệnh đột quỵ, đái đường, tim mạch, huyết áp cao, bệnh về phổi và ung thư. Họ cũng thu thập các dữ liệu về những triệu chứng suy nhược gần đây, về tình trạng hút thuốc, sử dụng chất cồn, và những hạn chế họ gặp phải trong hoạt động đời thường, ví dụ như mặc quần áo, tắm gội, uống thuốc và quản lý tiền bạc.

Người lớn tuổi của Mỹ cũng cho thấy mức độ biểu hiện suy nhược thấp hơn người già Anh, và theo Langa, điều này có thể giải thích phần nào lợi thế của người Mỹ trong sức khỏe trí não, vì suy nhược có liên quan tới suy giảm chức năng nhận thức.

“Các nghiên cứu khác được tiến hành giữa những năm 1990 đã phát hiện ra rằng không tới 15% người già bị suy nhược ở Anh được điều trị bằng thuốc, trong khi con số này ở Mỹ là 75%,” Langa nói. “Nghiên cứu trong tương lai nên tìm hiểu liệu việc sử dụng rộng rãi các thuốc chống suy nhược ở Mỹ có phải là một lí do dẫn tới ít triệu chứng suy nhược hơn, kéo theo hoạt động nhận thức tốt hơn ở người già Mỹ so với người già Anh hay không.”

Langa cùng đồng nghiệp cũng chứng kiến những khác biệt đáng kể trong lượng tiêu thụ chất cồn giữa người già ở hai quốc gia. Hơn 50% người già ở Mỹ cho biết không sử dụng chất cồn, trong khi con số này ở người già Anh là 15,5%. Nghiên cứu trước đó cũng cho thấy việc sử dụng rượu bia vừa phải có liên hệ với nhận thức tốt hơn ở người trên 50 tuổi.

David Weir, nhà kinh tế học của ISR, giám đốc công trình nghiên cứu Sức khỏe và Nghỉ hưu, đồng tác giả của phân tích hiện tại, lưu ý rằng một nghiên cứu khác đang đuợc tiếp tục triển khai bởi nhà kinh tế học Robert Willis của ISR cho thấy có mối liên hệ giữa nghỉ hưu sớm với suy giảm nhận thức sớm. Điều này cũng có thể là một cách giải thích cho nhận thức kém hơn ở người già Anh, nơi mọi người thường nghỉ hưu sớm hơn ở Mỹ.

Cuối cùng, Langa lưu ý, trong khi huyết áp cao phổ biến hơn ở người già Mỹ, nhưng họ lại có xu hướng dùng nhiều thuốc điều trị hơn. Một số nghiên cứu đã cho thấy có liên hệ giữa chứng huyết áp cao không được điều trị và nguy cơ cao về suy giảm khả năng nhận thức.

“Thực tế nhóm người cao tuổi nhất lại là nhóm người già Mỹ có chênh lệch lợi thế nhận thức lớn nhất khi so sánh với các nhóm người già Anh; điều này ủng hộ giả thuyết cho rằng việc chẩn đoán và điều trị quyết liệt hơn đối với huyết áp cao, và có thể cả các bệnh tim mạch nữa, dẫn tới ít nguy cơ suy giảm nhận thức hơn,” theo lời Langa.

“Trong bối cảnh số người già trên toàn thế giới đang tăng lên, các so sánh giữa các quốc gia trong tương lai với mục tiêu xác định những yếu tố xã hội, y tế có thể ngăn chặn hoặc trì hoãn sự suy giảm khả năng nhận thức ở người già sẽ góp phần quan trọng vào chăn sóc sức khỏe cộng đồng.”

Tin nổi bật

Tin cùng chuyên mục

Tin mới nhất