Sự thật về trận chiến đánh bại đạo quân Moor năm 732

Nếu như người Moor giành được chiến thắng, phần lớn châu Âu có thể đã bị đạo Hồi thống trị.

Trận chiến Poitiers hay còn gọi là Trận chiến Tours diễn ra trong khoảng một tuần vào đầu tháng 10 năm 732. Hai phe chiến tuyến là quân đội Frank do Vua Charles Martel chỉ huy đối đầu với lực lượng Hồi giáo xâm lược dưới danh nghĩa của vương triều Umayyad tại Damascus (Syria). Hai lực lượng này giao tranh với nhau khi Umayyad tìm cách mở rộng sức mạnh ở các vùng đất châu Âu, còn các lãnh chúa Frank tìm cách bảo vệ và củng cố quyền kiểm soát lãnh thổ.

Tham vọng của Umayyad


Hình vẽ mô phỏng lại trận chiến Tours tháng 10/732. (Ảnh: The collector).

Vương triều Umayyad là một đế chế chính trị và tôn giáo phát triển cực kỳ hưng thịnh vào thế kỷ thứ 7 ở Arab sau cái chết của nhà tiên tri Muhammed vào năm 632.

Dưới thời Umayyad, lãnh thổ mở rộng nhanh chóng. Vương triều Hồi giáo này đã trở thành một trong những quốc gia thống nhất lớn nhất trong lịch sử và là một trong số ít quốc gia từng mở rộng quyền cai trị trực tiếp trên ba lục địa, là châu Phi, châu Âu và châu Á. Vương triều Umayyad đã sáp nhập Kavkaz, Transoxiana, Sindh, Maghreb và bán đảo Iberia vào thế giới Hồi giáo. Trong thời kỳ phát triển nhất, vương quốc Umayyad bao phủ 14,9 triệu km2, gồm 62 triệu dân (chiếm 29% dân số thế giới), khiến nó trở thành đế chế lớn thứ năm trong lịch sử cả về diện tích và tỷ lệ dân cư.

Chỉ trong vài thập kỷ ngắn ngủi, quyền lực của Umayyad mở rộng về phía Tây tới tận Maroc và bán đảo Iberia. Umayyad đã đưa người Moor - một bộ tộc du mục ở Bắc Phi - vào lực lượng quân sự. Đây cũng là những người cải đạo cuồng nhiệt nhất và quyết tâm truyền bá đạo Hồi bằng vũ lực. Với tính hiếu chiến chảy trong dòng máu, người Moor đã phá vỡ đáng kể sự cân bằng quyền lực lúc bấy giờ, chiếm được phần lớn các thành phố phía Nam dãy Pyrenees (Tây Ban Nha) vào năm 711. Trên đà tiến công, người Moor bắt đầu đột kích về phía Bắc dãy Pyrenees vào biên giới của vùng đất Frank (nước Pháp).

Quyền lực của người Frank tại Tây Âu

Các bộ lạc Frank đầu tiên lên nắm quyền sau giai đoạn suy tàn của Đế chế La Mã vào khoảng cuối thế kỷ thứ 5. Nổi tiếng là những chiến binh vĩ đại, những người thuộc bộ tộc Đức này đã giúp lấp đầy khoảng trống quyền lực còn sót lại khi quyền lực của La Mã suy yếu trên khắp tỉnh Gaul (tương ứng với miền Bắc nước Pháp, Bỉ và miền Tây nước Đức ngày nay). Ngay từ năm 481, một thủ lĩnh người Frank tên là Clovis đã thống nhất các bộ tộc Frank khác nhau, cải đạo sang Cơ đốc giáo và thành lập Triều đại Merovingian cai trị trong khoảng 250 năm.

Triều đình Merovingian là một triều đình bạo lực, với các vụ ám sát xảy ra thường xuyên đến mức năng lực cai trị cũng dần suy yếu. Theo thời gian, quyền lực của người Frank bị chia nhỏ ra cho thống đốc từng vùng quản lý.

Khi một trong những thống đốc quan trọng đầu tiên - Pepin II - qua đời, một cuộc khủng hoảng kế vị xảy ra giữa những người thừa kế tiềm năng của ông. Cuối cùng, con trai ngoài giá thú của Pepin là Charles nổi lên như ứng viên vượt trội. Charles đã dành phần lớn thời gian trị vì của mình để củng cố quyền lực, chiến đấu và dập tắt các cuộc nổi loạn sau cái chết của Thống đốc Pepin II. Charles đã chỉ đạo 11 cuộc chiến lớn từ năm 715-731, thu về cho mình nhiều kinh nghiệm quý báu và được các đồng minh tín nhiệm. Tuy nhiên, phải mất thời gian Vua Charles mới củng cố được quyền kiểm soát và giành được độc lập ở một số vùng như Aquitaine ở phía Nam. Aquitaine vô tình đóng một vai trò quan trọng như một vùng đệm giữa quân đội Umayyad và quân đội Frank.


Chân dung Vua Frank Charles Martel. (Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Mỹ).

Xung đột giữa Umayyad và Frank

Aquitaine là một tỉnh bán độc lập vào đầu thế kỷ thứ 8, do vương quốc Frank tuyên bố chủ quyền trên danh nghĩa nhưng lại được cai trị bởi một nhà chỉ huy quân sự tài ba, Eudes. Eudes cũng muốn tìm kiếm quyền lực sau cái chết của Pepin II.

Aquitaine giáp với vùng đất Tây Ban Nha mà Umayyad mới chinh phục lúc bấy giờ. Mặc dù Eudes đã đạt được một số thành tựu, trong đó đáng chú ý nhất là chống lại một cuộc tấn công lớn vào thành phố Toulouse vào năm 719 song cuối cùng, vào năm 732, lực lượng của Umayyad do Thống đốc Tây Ban Nha Abd al-Rahman ibn Abd Allah al-Ghafiqi đánh bại đội quân của Eudes tại Aquitanie, cướp phá toàn bộ khu vực.

Khi thất bại, Eudes buộc phải đi về phía Bắc để tìm kiếm viện trợ từ Charles. Mặc dù không ưa nhau, nhưng Charles đã đồng ý giúp đỡ.

Trận chiến ở thị trấn Tours diễn ra vào ngày 10/1/732, gần nơi giao nhau của sông Clain và Vienne trên một vùng đồng bằng tương đối rộng mở bao quanh là rừng cây.

Trong khi quân đội của Abd al-Rahman chủ yếu dựa vào bộ tộc Moor hung hãn thì lực lượng Frank cũng bao gồm nhiều dân tộc có thể nói đa ngôn ngữ. Cả hai đội quân đều sử dụng bộ binh và lợi thế của lực lượng Umayyad là kỵ binh được trang bị đầy đủ. Trong khi số quân của Umayyad ước tính rơi khoảng 20.000-25.000 người, thì lực lượng Frank dao động từ 15.000-20.000 quân.

Nhận thức được sự phụ thuộc của lực lượng Umayyad vào kỵ binh và chiến thuật tấn công chung, Vua Charles đã bố trí lực lượng của mình thành đội hình phalanx (đội hình đông quân hình chữ nhật) để đẩy lùi cuộc tấn công của Umayyad.

Giao tranh liên tục xảy ra cho đến khi có tin đồn lan truyền khắp doanh trại Umayyad rằng đoàn tàu chở quân trang của họ đang bị người Frank lục soát, gây ra tâm lý hoảng loạn và phá vỡ kỷ luật. Chỉ huy người Arab Abd al-Rahman đã bị giết khi tìm cách thiết lập lại quyền kiểm soát quân đội trong doanh trại.

Trở thành “rắn không đầu”, ngay trong đêm, lực lượng Umayyad rút lui, quân đội Frank giành chiến thắng. Eudes và đội quân của ông được giao nhiệm vụ truy đuổi các binh sĩ Umayyad còn sót lại, trong khi Vua Charles hành quân trở lại phía Bắc.

Cho đến nay, câu hỏi về tầm quan trọng của Tours như một bước ngoặt có ảnh hưởng trong lịch sử vẫn còn gây tranh cãi. Chiến thắng của Vua Charles vào năm 732 đã giúp ngăn chặn việc vương triều Umayyad định cư trên lãnh thổ người Frank, ít nhất là trong năm đó. Tuy nhiên, nhiều nhà sử học cho rằng Tours không phải là cuộc xung đột mang tính quyết định như miêu tả. Họ cho rằng các cuộc đột kích của người Arab được phát động vào năm 734, 736 và cuộc xâm lược lớn nhất của họ vào năm 739, khi họ gần như đã tiến xa tới Dijon trước khi bị lực lượng Frank và Lombard đánh lui, mới là những điểm ngoặt định mệnh.

Song một số chuyên gia lại cho rằng tầm quan trọng của cuộc chiến tại Tours không nhất thiết nằm ở bản thân trận chiến. Trên thực tế, nó đã tạo ra một “mồi lửa” mâu thuẫn nội bộ ngay trong chính vương triều Umayyad và dẫn đến cuộc nổi dậy của bộ tộc Moor ở Maroc sau này.

Không có nguồn cung cấp quân binh ổn định cũng như không lôi kéo được người tham gia thông qua hành vi cướp bóc, quân đội Umayyad ở Tây Ban Nha phải rút lui về phía sau dãy Pyrenees, suy yếu dần và ít có năng lực tiếp tục đột kích vào vùng đất của người Frank.

Trận chiến Tours đem lại ánh hào quang uy tín và quyền lực quân cho Vua Charles. Ông được coi là vị cứu tinh của Cơ đốc giáo sau chiến thắng trước người Hồi giáo.

Sau trận đánh ở Tours, Charles được công nhận là người có quyền lực tối cao trong vương quốc và điều đó giúp ông tập trung quyền lực xung quanh mình. Một trong những cách ông làm để thu phục người dân là trả công cho những người trung thành với mình bằng những điền trang thuộc sở hữu của Giáo hội. Charles vừa giúp củng cố lòng trung thành của những người theo mình thông qua quà tặng, vừa tăng cường quyền nắm giữ các vùng đất trong vương quốc của mình bằng cách giao cho các chỉ huy quân sự đáng tin cậy.

Tin nổi bật

Tin cùng chuyên mục

Tin mới nhất