Tại sao các phiên bản Android lại được đặt tên theo đồ tráng miệng ngọt?

Lý do tại sao các phiên bản Android lại được đặt tên theo đồ tráng miệng ngọt? Phải chăng vì Google cho rằng Android chính là món quà chiều ngọt ngào nhất tới người dùng?

Ý nghĩa của cách đặt tên theo món tráng miệng ngọt

Theo kỹ sư Android Jean-Baptiste Queru nói với trang Android Police năm 2012, dù mọi phiên bản khác của Android đều được đặt tên mã theo một loại kẹo ngọt hay món tráng miệng nào đó, nhưng phiên bản đầu tiên của Android OS (1.0) được công bố hồi tháng 9/2008 lại không có bất kỳ tên mã nào, cả nội bộ lẫn công khai. Android 1.1, ra mắt tháng 2/2009, dù chưa có tên mã công khai nhưng nhiều báo cáo cho rằng nội bộ đội ngũ đã sử dụng code name “Petit four” cho hệ điều hành (một loại bánh gato nhỏ của Pháp).

Phải mãi đến lượt phát hành của Android 1.5, vài tháng sau vào tháng 4/2009, Android mới chính thức có tên hiệu Cupcake. Ý tưởng lấy tên các món ăn vặt ngọt ngào đặt cho từng phiên bản Android lớn bắt nguồn từ giám đốc dự án tại Google, Ryan Gibson, nhưng lý do cụ thể anh chọn làm như vậy giờ vẫn chưa ai biết. Về sau, khi Google phát hành Android 4.4 KitKat, hãng đã đưa ra lời giải thích “chính thức” cho phong cách đặt tên hiệu phiên bản OS của mình rằng: “Vì những thiết bị chạy Android khiến cuộc sống của bạn trở nên ngọt ngào hơn, các phiên bản chạy Android sẽ được đặt tên theo một món tráng miệng ngọt”.

Vậy còn logo Android?


Logo Android là một chú robot “lai” con bọ màu xanh lá.

Logo đã quá đỗi quen thuộc với giới mê công nghệ, hình một chú robot “lai” con bọ màu xanh lá, được tạo ra bởi Irina Blok khi cô còn làm ở Google. Cô nói rằng yêu cầu duy nhất cô nhận được từ đội ngũ thiết kế Google đó là tạo ra một logo trông giống robot. Irina còn nói thêm rằng thiết kế cuối cùng được lấy cảm hứng một phần từ những logo gắn trên cửa phòng… WC “Nam” và “Nữ”.

Tại sao Google lại dùng tượng để kỷ niệm các bản cập nhật Android?

Như đã nói ở trước, phiên bản đầu tiên của Android có tên là Cupcake. Khi Google hé lộ code name hằng năm, hãng luôn sắp xếp vị trí cho một bức tượng mới tượng trưng cho tên hiệu đó tại Trung tâm dành cho Khách tham quan của mình tại Moutain View, California.

Năm 2015, kênh YouTube Nat and Friends đã quay vlog lại và hé lộ việc một đội ngũ nghệ thuật nhỏ tại New Jersey đang làm công việc thiết kế tượng Android thường niên, bao gồm cả logo chú robot lẫn các phiên bản món tráng miệng tượng trưng cho mã hiệu từng phiên bản Android từ Cupcake (1.5) tới Oreo (8.0).

Android 1.5 Cupcake


Đây là phiên bản Android đầu tiên có mã hiệu.

Đây là phiên bản Android đầu tiên có mã hiệu, bản cập nhật mở ra thêm nhiều chức năng và cải thiện hiệu suất, bao gồm trong đó nhiều tính năng chúng ta coi như "mặc định" ngày nay: upload một đoạn video lên YouTube, hay tự động xoay màn hình theo hướng người dùng xoay thiết bị, hoặc hỗ trợ cho bàn phím bên thứ ba.

Android 1.6 Donut


Donut ngoài ra còn giới thiệu Power Control widget để quản lý Wifi, Bluetooth, v.v…

Google nhanh chóng phát hành Android 1.6 Donut vào tháng 9/2009, một vài tính năng mới có trên Donut gồm hỗ trợ cho các nhà mạng sử dụng mạng lưới CDMA, cho phép điện thoại Android được bán ra tại tất cả các nhà mạng trên toàn cầu.

Các tính năng khác bao gồm Quick Search Box, chuyển qua lại nhanh giữa Camera, Camcorder và Gallery để tối ưu hóa trải nghiệm ghi/chụp hình. Donut ngoài ra còn giới thiệu Power Control widget để quản lý Wifi, Bluetooth, v.v…

Android 2.0-2.1 Eclair


Phiên bản này giới thiệu tính năng Text-to-Speech, cùng hình nền động và hỗ trợ đăng nhập nhiều tài khoản.

Tháng 10/2009, khoảng một năm sau Android 1.0, Google phát hành Android 2.0 có tên mã Eclair (một loại bánh ngọt xuất xứ từ Pháp có hình thuôn dài và có nhân kem bên trong). Phiên bản này giới thiệu tính năng Text-to-Speech, cùng hình nền động và hỗ trợ đăng nhập nhiều tài khoản. Chưa hết, Eclair còn mang đến chỉ dẫn đường Google Maps cùng nhiều tính năng và cải tiến khác.

Chiếc Motorola Droid là smartphone đầu tiên cài đặt sẵn Android 2.0 từ khi xuất xưởng, Droid cũng đánh dấu smartphone Android đầu tiên được nhà mạng Verizon Wireless bán ra. Google được dùng cái tên “Android” để đặt cho hệ điều hành của mình, nhưng còn với Motorola, hãng đã phải trả tiền cho Lucasfilm - một hãng phim phụ trách sản xuất bộ phim Star Wars nổi tiếng do từ “Droid” thời điểm đó gợi nhớ quá nhiều đến series phim Star Wars của Lucasfilm. Motorola sau đó đã tiếp tục dùng cái tên Droid cho tới tận cuối năm 2016.

Android 2.2 Froyo


Android 2.2 Froyo đánh dấu sự ra đời của smartphone đầu tiên gắn mác Google.

Ra mắt tháng 5/2010, Android 2.2 Froyo (viết tắt cho “frozen yogurt” - sữa chua đá) mang lại tính năng phát Wi-fi, push notifications và dịch vụ Android Cloud to Device Messaging (C2DM), hỗ trợ flash, v.v…

Android 2.2 Froyo đánh dấu sự ra đời của smartphone đầu tiên gắn mác Google, chiếc Nexus One - ra mắt với Android 2.1 nhưng nhanh chóng được nhận bản cập nhật OTA lên Froyo 2.2 cuối năm đó. Cột mốc này đánh dấu một hướng tiếp cận mới cho Google, với việc công ty đang tiến gần hơn bao giờ hết tới nhà sản xuất HTC để phô diễn sức mạnh của Android gốc (Android không bị tùy biến bởi nhà sản xuất bên thứ ba).

Android 2.3 Gingerbread


Google thống kê rằng chỉ 0,6% smartphone Android đang chạy phiên bản này.

Android 2.3 ra mắt tháng 9/2010 và hiện là phiên bản cũ nhất vẫn còn trong danh sách cập nhật hằng tháng của Google. Tính đến ngày 13/9/2017, Google thống kê rằng chỉ 0,6% smartphone Android đang chạy phiên bản này.

Phiên bản Gingerbread chứng kiến một thay đổi lớn về giao diện người dùng, cùng với đó là hỗ trợ thêm công nghệ giao tiếp tầm gần NFC. Điện thoại đầu tiên có Gingerbread lẫn NFC là Nexus S, vốn là sản phẩm từ cái bắt tay giữa Google và Samsung. Gingerbread còn đặt nền móng cho selfie, bằng việc hỗ trợ nhiều camera và video chat với Google Talk.

Android 3.0 Honeycomb


Đây được xem là phiên bản Android “dị” nhất của Google.

Đây được xem là phiên bản Android “dị” nhất của Google. Honeycomb được phát hành chỉ cho các máy tính bảng và thiết bị di động màn hình kích thước lớn. OS này được giới thiệu lần đầu năm tháng 2/2011, cùng với tablet Motorola Xoom, bao gồm một giao diện được thiết kế lại chuyên dụng hơn cho màn hình kích thước lớn, cùng với thanh notification bar đặt ở đáy màn hình thiết bị, v.v….

Ý tưởng của Honeycomb là cung cấp thêm những chức năng vốn dĩ không hiệu quả trên những màn hình nhỏ của các smartphone thời bấy giờ. Đây cũng được xem là câu trả lời của Google trước việc Apple ra mắt iPad. Dù vậy, ngay cả sau khi Honeycomb đã được phát hành, số tablet vẫn cài các phiên bản Android dành cho smartphone 2.x từ trước đó. Sau cùng, Honeycomb tỏ ra thừa thãi và cuối cùng Google cũng quyết định tích hợp mọi tính năng của Honeycomb lên Android 4.0.

Android 4.0 Ice Cream Sandwich


ICS kết hợp nhiều tính năng tablet từ Honeycomb cùng khuynh hướng smartphone của Gingerbread.

Ra mắt hồi tháng 10/2011, Ice Cream Sandwich bổ sung thêm một loạt các tính năng mới tới người dùng. ICS kết hợp nhiều tính năng tablet từ Honeycomb cùng khuynh hướng smartphone của Gingerbread. Ice Cream Sandwich còn cho phép mở khóa điện thoại bằng cách dùng camera chụp một bức ảnh của chủ nhân (phải, Galaxy S8 không phải là smartphone đầu tiên có mở khóa bằng khuôn mặt, tính năng này đã có trên Android từ năm 2011).

Một thay đổi đáng chú ý của ICS đó là hỗ trợ cho phím điều hướng trên màn hình, cử chỉ vuốt để xóa thông báo và tab trên trình duyệt, cuối cùng là khả năng quản lý lượng dữ liệu người dùng sử dụng qua 3G và Wi-Fi.

Tin nổi bật

Tin cùng chuyên mục

Tin mới nhất