Thời cổ đại, bệnh ung thư được chữa trị như thế nào?
Người thời cổ đại đã làm thế nào để điều trị ung thư, căn bệnh cực kỳ phức tạp ngay cả đối với y học ngày nay? Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều học giả nghiên cứu các cách chẩn đoán và điều trị ung thư trong thời cổ đại.
Nền móng đầu tiên từ Hippocrates
Y học lần đầu tiên đề cập đến ung thư vào khoảng năm 1600 trước Công nguyên. Vào thời điểm đó, thuật ngữ karkinoma được sử dụng để mô tả các khối u không thể chữa khỏi, phát sinh ở một số bệnh nhân. Hippocrates, thầy thuốc Hy Lạp được mệnh danh là cha đẻ của y học (460 - 370 trước Công nguyên), là người đầu tiên quan sát và ghi chép lại về các khối u này và đặt tên cho chúng.
Các bác sĩ khác thời đó tin vào lý thuyết dịch thể của Hippocrates, cho rằng nhiều loại bệnh khác nhau là do dư thừa một lượng mật khác nhau. Đối với Hippocrates và các bác sĩ khi đó, bệnh ung thư là do bệnh nhân “thừa quá nhiều mật đen”. Các phương pháp điều trị phổ biến bao gồm truyền máu, dùng thuốc nhuận tràng hoặc thay đổi chế độ ăn uống. Không có bằng chứng về bất kỳ kỹ thuật phẫu thuật loại bỏ khối u nào ở thời điểm này trong lịch sử.
Từ lý thuyết bốn loại mật trong cơ thể, các bác sĩ cổ đại tin rằng dư thừa mật là nguyên nhân gây ra ung thư.
Đi sau Hippocrates, trong khoảng năm 25 trước Công nguyên đến năm 50 sau Công nguyên, Aulus Cornelius Celsus, một bác sĩ người La Mã và nhà bách khoa toàn thư, xuất hiện đã lấy thuật ngữ của Hippocrates cho tình trạng bệnh này, “carcinoma” (ung thư biểu mô) và dịch sang tiếng Latinh là “crab”. Tên gọi “crab” còn đến ngày nay, và được dịch thành “cancer” (ung thư) trong ngôn ngữ hiện đại. Aulus Cornelius Celsus là người đầu tiên ghi lại sự lây lan của ung thư, thậm chí đã ghi chép rõ cách thức ung thư vú có thể lây lan từ vú xuống dưới nách ở một số bệnh nhân. Ông cũng phân loại ung thư khác nhau dựa trên mức độ nghiêm trọng và đặc điểm thể chất của chúng. Ông mô tả việc tìm thấy các bệnh ung thư trên tất cả các bộ phận của cơ thể, bao gồm mặt, miệng, cổ họng, vú, gan, ruột kết, v.v...
Nhưng phải vài thập kỷ sau cả Hippocrates và Celsus, những tiến bộ trong điều trị ung thư mới bắt đầu xuất hiện. Archigenes, một bác sĩ người Greco-Syria vào thế kỷ 1 và 2 sau Công nguyên, là bác sĩ đầu tiên cố gắng phẫu thuật loại bỏ ung thư trên bệnh nhân của mình. Oribasius, một bác sĩ khác đã mô tả phương pháp phẫu thuật này, nhấn mạnh rằng để thực hiện cần chẩn đoán sớm và phải tránh bất kỳ dây thần kinh nào xung quanh khối u. Ông cũng mô tả các phương pháp đốt khối u ngăn tái phát, cũng như điều trị sau phẫu thuật để ngăn ngừa nhiễm trùng bao gồm sử dụng thuốc đắp, muối, tỏi tây và các chất làm se da khác.
Các kỹ thuật điều trị
Claudius Galen, một bác sĩ người Hy Lạp vào thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên tiếp tục phát triển lý thuyết và phương pháp điều trị của Hippocrates và Archigenes. Dựa trên lý thuyết dịch thể của Hippocrates, ông cũng cho rằng ung thư là do dư thừa mật đen. Cụ thể, Galen tin rằng mật đen được sản xuất bởi gan và tích tụ theo thời gian do không được lá lách xử lý. Galen cũng cho rằng mật đen dẫn đến ung thư không thể chữa khỏi trong khi mật vàng dẫn đến ung thư có thể chữa được. Đây có thể là lần đầu tiên một thầy thuốc cổ đại xác định sự khác biệt giữa khối u ác tính và lành tính.
Galen tuyên bố đã quan sát thấy nhiều trường hợp “mật đen dư thừa” gây ung thư trong các mô vú của phụ nữ chưa mãn kinh. Ông kể chi tiết về quá trình cắt bỏ những khối u này, nói rằng ông sẽ cắt bỏ khối u và một chút khu vực xung quanh, sau đó đốt gốc của khối u nhằm ngăn chặn nó phát triển trở lại. Ông cũng lưu ý tầm quan trọng của việc điều trị sớm bằng thuốc tẩy để cố gắng loại bỏ mật đen. Chỉ khi không còn lựa chọn điều trị khác mới dùng đến biện pháp cuối cùng là phẫu thuật cắt bỏ.
Leonides, một bác sĩ người Hy Lạp sống cùng thế kỷ với Galen, thường xuyên tham khảo các tác phẩm của Galen để áp dụng trong việc phân tích và điều trị các trường hợp ung thư vú khác nhau. Nhưng Leonides cho rằng nên phẫu thuật sớm thay vì coi đây là biện pháp cuối cùng. Hồ sơ của ông mô tả một số trường hợp cắt bỏ toàn bộ vú sớm nhất có thể để điều trị ung thư vú ở phụ nữ.
Ngoài ra, Leonides cũng mô tả một số trường hợp ung thư vú ở nam giới, hiếm gặp hơn, cũng như các cách khác nhau mà ung thư vú có thể biểu hiện ở những bệnh nhân khác nhau. Ông là người đầu tiên xác định núm vú bị đảo ngược là dấu hiệu của ung thư vú. Phương pháp đốt trong các ca phẫu thuật của Leonides chủ yếu là để ngăn ngừa xuất huyết, nhưng cũng là phương pháp loại bỏ các dấu vết cuối cùng của ung thư trên cơ thể sau khi phẫu thuật cắt bỏ vú. Leonides tin rằng việc đốt toàn bộ khu vực vừa cắt bỏ vú và khối u sẽ làm cho bệnh không tái phát.
Cuối cùng, Paulus Aegineta, một bác sĩ và nhà bách khoa toàn thư ở thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên, đã mô tả thêm những phát hiện liên quan đến điều trị ung thư. Aegineta chủ yếu tin theo những lý thuyết của Galen, ngoại trừ việc ông cho rằng không nên đốt toàn bộ khu vực phẫu thuật vì sẽ gây nhiều tổn hại cho bệnh nhân về lâu dài do làm vết thương lâu lành và tăng khả năng nhiễm trùng. Aegineta tin rằng chỉ nên sử dụng phương pháp đốt để phá hủy nhẹ gốc rễ của khối u. Ngay cả khi xuất huyết, Aegineta rất hạn chế sử dụng phương pháp đốt trong các ca phẫu thuật.
Đối với Aegineta, các khối u không bị loét (dưới da, hoặc được cho là nằm bên trong một cơ quan như tử cung) là quá nguy hiểm để và có nguy cơ tử vong quá để thực hiện phẫu thuật phẫu thuật. Vì thế, giống như Hippocrates và Galen, ông hướng tới các phương pháp điều trị tập trung vào việc tống xuất “mật đen” để điều trị cho những bệnh nhân này.
Sau này, các bác sĩ đi sau Hippocrates, Archigenes of Apamea và Galen vẫn tiếp tục chữa trị dựa trên các phương pháp của những người đi trước. Họ tiếp tục tin rằng mật đen là nguyên nhân gây ra các bệnh ung thư (đôi khi họ sử dụng chất bài tiết có mùi hôi từ các khối u để làm bằng chứng cho giả thuyết này), và tìm các cách khác nhau để cải tiến kỹ thuật phẫu thuật loại bỏ các khối u khỏi các bộ phận khác nhau của cơ thể.
Nhưng nhìn chung, hầu hết các cuộc phẫu thuật cổ đại chỉ xử lý các khối u có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Với trình độ y học khi đó, phẫu thuật sâu hơn mức này là quá nguy hiểm và có tỷ lệ tử vong cao. Phải đến vài thế kỷ gần đây mới xuất hiện các phương pháp điều trị ung thư sâu hơn.
May mắn thay, nhờ các thiết bị quét và kỹ thuật lấy mẫu, y học hiện đại có khả năng chẩn đoán chính xác các khối u ở tất cả các bộ phận của cơ thể, và trong hầu hết các trường hợp có thể đưa ra các biện pháp can thiệp.
- Rau diếp giúp phi hành gia cải thiện sức khoẻ trong sứ mệnh dài ngày trên sao Hỏa
- Gấu Bắc Cực có thể tồn tại ở Nam Cực không?
- Tại sao một số mũi được tiêm vào tay, một số mũi khác được tiêm vào mông?