Phát hiện xương khủng long bụng phệ
Bộ xương hoàn chỉnh nhất của một loại khủng long “bụng phệ”, therizinosaur, đã được phát hiện tại miền Nam Utah.
Phát hiện này đem lại những hiểu biết mới về sự tiến hóa của khẩu phần ăn lá và thịt vào thời kỳ cổ đại, cho thấy những loài săn mồi mang tính chất hình tượng như Velocirapotr có thể đã tiến hóa từ những loài tổ tiên ăn thực vật ít đáng sợ hơn.
Khủng long mới được phát hiện, có tên gọi là Nothronychus graffami, sống cách đây 93 triệu năm. Khi còn sống, loài vật này có chiều cao 13 feet (4 mét), có mỏ và vuốt dài 9 inch (22 cm) ở chi trước.
Với những đặc điểm như chân lùn mập, bụng to cho thấy loài vật khổng lồ này tìm kiếm thức ăn thực vật chứ không phải là một loài săn mồi.
Nhà nghiên cứu Lindsay Zanno thuộc Bảo tàng Chicago, cho biết: “Thông thường cần khá nhiều thời gian để tiêu hóa thực vật. Những loài ăn thực vật cần phát triển đường ruột dài để thu được năng lượng cần thiết”.
Nothronychus graffami đang kiếm ăn trong một khu rừng đước gần dải đất ven bờ 93 triệu năm trước. Một con Zuniceratops đực đang đi qua ở phía sau. (Ảnh: Victor Leshyk 2009)
Khẩu phần ăn
Những đặc điểm thể chất của loài khủng long này phù hợp với loài therizinosaurs, một nhóm khủng long kỳ bí được cho là thuộc và loài khủng long maniraptoran có cùng tổ tiên với loài chim (mặc dù hai nhóm đã bị chia tách khoảng 150 triệu năm trước, trong Kỷ khủng long).
Trong khi hầu hết theropods, ví dụ như Tyrannosaurus rex và Velociraptor, là những loài ăn thịt, thì therizinosaurs rất có thể ăn thực vật.
Để tìm hiểu làm thế nào cả khẩu phần ăn thịt và thực vật tiến hóa ở theropods, Zanno và các đồng nghiệp so sánh giải phẫu của loài khủng long mới được phát hiện và những mẫu vật từ 75 loài theropods khác. Qua việc này, nhóm nghiên cứu đã phát hiện rằng loài therizinosaurs ăn thực vật như N. graffami là nhóm maniraptorans lâu đời nhất.
Điều này có nghĩa rằng loài ăn thực vật đã có mặt từ rất sớm trong quá trình tiến hóa của maniraptorans.
Ăn thực vật từ sớm
Một số dòng giống maniraptoran cho thấy sự thích nghi đối với việc ăn thực vật, bao gồm loài khủng long có mỏ ostrich và oviraptorosaurs. Do đó nhóm nghiên cứu đã tìm kiếm những đặc điểm ăn thịt và ăn thực vật ở một mẫu vật maniraptorans, và phát hiện rằng loài sớm nhất có thể ít nhất đã từng “nghĩ” tới việc ăn thực vật.
Zanno phát biểu trên LiveScience: “Trước đây chúng tôi nghĩ rằng theropods ăn thực vật giống như therizinosaurs rất hiếm. Chúng tôi biết rằng chúng đã tiến hóa từ một loài ăn thịt đâu đó trong cây phả hệ, tuy nhiên trước nghiên cứu này có vẻ như loài ăn thực vật là những trường hợp đặc biệt chứ không phải thông thường đối với khủng long theropods maniraptoran”.
Thực tế hoàn toàn không phải vậy, Zanno và các đồng nghiệp phát hiện rằng ăn thịt nói riêng hoặc kết hợp với ăn thịt có thể truy ngược lại đến cội nguồn của nhóm maniraptoran.
Zannno nhận định: “Rất nhiều dòng giống của khủng long maniraptoran có thể đã ăn một lượng thực vật như một phần trong khẩu phần ăn của chúng, và chúng có thể đã được tổ tiên truyền lại khả năng này. Do vậy, khủng long săn mồi maniraptoran như Velociraptor có thể đã tiến hóa một lần nữa để trở thành loài chỉ ăn thịt”.
Tái dựng bộ xương của Nothronychus graffani cho thấy “bụng phệ”, chân mập lùn, cổ dài, và đầu nhỏ của loài khủng long này, những đặc điểm thường thấy ở những loài ăn thực vật. (Ảnh: Rob Gaston 2008) |
Các nhà nghiên cứu dự đoán rằng khả năng ăn thực vật có thể đã cho phép maniraptoran di chuyển đến nhiều môi trường nhỏ hẹp và đa dạng hóa theo những cách mà chúng không thể nếu chỉ ăn thịt.
Zanno cho biết: “Điều gì đó đã xảy ra rất sớm trong quá trình tiến hóa của maniraptorans có liên quan chặt chẽ tới sự đa dạng hóa đáng kinh ngạc của loài vật này. Khả năng ăn nhiều loại thức ăn khác ngoài thịt có thể là một trong những chìa khóa đóng góp vào sự thành công của chúng”.
Phát hiện được báo cáo trực tuyến trên tạp chí Proceedings of the Royal Society B: Biological Sciences số ngày 15 tháng 7.
Móng vuốt khổng lồ trên tay của Nothronychus graffami có thể đã giúp loài khủng long này níu các cành cây để tìm kiếm lá. Những móng vuốt này cũng có thể có tác dụng “dọa nạt” các loài săn mồi khác và để quyến rũ bạn tình. (ảnh: David D. Gillette) |