Giới nghiên cứu đã nhầm, Dire Wolves hoàn toàn không phải là sói
Dire Wolves (Canis dirus) là một trong những kẻ săn mồi thống trị ở Bắc Mỹ cho đến cuối Kỷ Băng hà cuối cùng, khoảng mười một nghìn năm trước. Nhưng hầu hết những kiến thức mà nhân loại biết được về chúng cho tới nay đã hoàn toàn bị bác bỏ. Trước đây, giới khoa học cho rằng Dire Wolves thuộc về phân nhanh sói trong cây tiến hóa và có họ hàng gần với loài sói xám, thế nhưng những nghiên cứu mới đây đã cho thấy điều này là hoàn toàn sai lầm, Dire Wolves và sói xám trên thực tế là hai loài này đã tách ra khỏi nhau từ 5 - 6 triệu năm trước.
Có thể nói Dire Wolves là một loài thú săn mồi hết sức phổ biên trong thời Kỷ Băng hà, bằng chứng là việc giới cổ sinh vật học đã từng phát hiện được xương của hơn 4.000 cá thể trong hố nhựa đường La Brea ở Los Angeles. Tuy nhiên, những nghiên cứu về loài động vật này cho tới nay vẫn chưa nhiều. Nghiên cứu mới nhất về Dire Wolves là, so sánh DNA của chúng đối với DNA của những loài thuộc họ canid (họ chó) hiện đại.
Kết quả của nghiên cứu này sau đó được công bố trên tạp chí Nature và nó đã thực sự đã trở thành một cú sốc lớn đối với giới cổ sinh vật học hiện đại. Dire Wolves là một loài riêng biệt và hoàn toàn không có loài nào có thẻ coi là họ hàng gần của chúng. Dire Wolves đã tiến hóa và trở thành một loài đã tách ra khỏi nhánh tiến hóa của sói xám, chó và chó sói đồng cỏ. Tổ tiên của loài Dire Wolves có lẽ đã ở Bắc Mỹ trong một thời gian dài trước khi sói xám và sói đồng cỏ đến khu vực này, nhưng những gì mà chúng ta biết về tổ tiên của chúng vẫn còn rất ít.
Mặc dù nó không lớn bằng phiên bản trên truyền hình, nhưng những con Dire Wolves lớn hơn trung bình khoảng 20% so với sói xám, trình bộ gene của loài Dire Wolves và sói xám cho thấy sự phân tách gene lớn đến mức chúng không chỉ là một loài riêng biệt mà là một chi riêng biệt so với chó sói.
Ngoài ra, nghiên cứu còn cho thấy khoảng 10.000 năm về trước sói xám đã băng qua eo biển Bering và đến lục địa Bắc Mỹ và chung sống với loài Dire Wolves, nhưng dường như không có sự giao phối chéo nào xảy ra giữa hai loài này. Điều này một lần nữa khẳng định rằng cả hai loài Dire Wolves và sói xám đã tiến hóa quá xa nhau để có thể giao phối chéo thành công.
Tiến sĩ Kieren Mitchell của Đại học Adelaide cho biết: "Loài Dire Wolves trước đây đã bị hiểu nhầm là chó sói do từ dấu vết từ các bộ xương cho thấy rất nhiều điểm tương đồng với loài sói", nhưng nghiên cứu này đã thay đổi hoàn quàn quan niệm sai lầm đó. Khám phá này có nghĩa là những con Dire Wolves có thể cần một tên chi mới, vì chúng không còn là thành viên của chi Canis.
Hơn nữa, Mitchell nói thêm, "hầu hết hóa thạch của loài Dire Wolves đều được tìm thấy ở khu vực có môi trường nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, bởi vậy DNA của chúng rất khó để có thể lưu giũ nguyên vẹn. Và nhóm nghiên cứu đã phải mất rất nhiều thời gian và công sức để có thể chiết xuất được DNA của loài này". Có lẽ môi trường phát hiện ra những bộ xương của loài Dire Wolves cũng là một manh mối quan trọng trong việc xác định nguồn gốc và môi trường sống của chúng. Các bộ phận không thể hóa thạch được của loài Dire Wolves có lẽ có nhiều điểm tương đồng với chó hoang Châu Phi hơn là loài sói xám sống ở môi trường lạnh giá.
Những con Dire Wolves đực có kích thước tương đương với con cái, nhưng một số con được trang bị những chiếc nanh to hơn và đáng sợ hơn. Điều này có lẽ đã làm tăng sức hấp dẫn của chúng trong mùa giao phối và cải thiện khả năng giết con mồi của chúng. Giống như hầu hết các loài động vật có vú lớn khác thuộc kỷ Pleistocen muộn, Dire Wolves đã biến mất ngay sau Kỷ Băng hà cuối cùng, rất có thể chúng tuyệt chủng bởi sự biến mất của những con mồi quen thuộc của nó.
Trên thực tế, loài này không hề có bất kỳ họ hàng nào còn sống ở thời hiện đại. Loài động vật tiền sử duy nhất mà chúng ta có thể xác định được có quan hệ họ hàng với loài này là loài Canis armbrusteri đã tuyệt chủng.
Trong khi dòng sói xám nguyên thủy đã tiến hóa và phân chia thành một số loài nhỏ, thì cho tới nay vẫn không có dấu hiệu nào cho thấy những con Dire Wolves đã tiến hóa và phân chia thành các nhanh nhỏ. Mitchell cho rằng có thể là tại thời điểm mà loài Dire Wolves sinh sống, những khoảng trống trong chuỗi thức ăn dành cho những kẻ săn mồi ở Bắc Mỹ đã được lấp đầy bởi các thành viên của họ mèo.
Khi Kỷ Băng hà cuối cùng kết thúc, sự kết hợp của nhiệt độ tăng cao, sự cạnh tranh của con người và sự suy giảm số lượng của các loài ăn cỏ đã đẩy loài Dire Wolves đến với hệ quả tuyệt chủng, điều này có lẽ là tương tự như những gì đã xảy ra đối với loài hổ răng kiếm và sư tử Bắc Mỹ.