Những nhiệm vụ quan trọng nhất trong lịch sử NASA (Phần 2)
Trong khi các phi vụ của tàu Mercury mang lại cho con người những điều căn bản về quỹ đạo, thì phi vụ của Gemini đã cho chúng ta thấy những kỹ thuật cần thiết để lên Mặt trăng.
Gemini IV
Một trong những hoạt động quan trọng nhất trên Mặt trăng là đi bộ trong không gian, để lại tàu viên nang và đi ra ngoài trong không gian. Mỹ chưa từng thực hiện điều này, nên việc thực hành trước khi đưa người lên Mặt trăng là vô cùng quan trọng.
Edward H. White II, một phi công thử nghiệm của Hoa Kỳ, đã được chọn để trở thành người Mỹ đầu tiên trong không gian. Ông và phi hành đoàn James McDivitt đã đi vào không trung ngày 3/6/1965, trên một tên lửa Titan II. Chuyến đi ngoài không gian của White kéo dài 36 phút và không có nhiều sự cố.
Mục tiêu của nhiệm vụ đánh giá hiệu quả lâu dài của chuyến bay vũ trụ (nhiệm vụ kéo dài bốn ngày) và thực hiện một chuyến đi bộ ngoài không gian đã thành công. Tuy nhiên, viên nang đã hạ cánh vị trí đã định trước khoảng 80 km (50 dặm). Lý do: Các phi hành gia quên rằng Trái đất đang quay theo họ khi họ thực hiện tính toán với phương trình vi phân (!).
STS-1
STS-1 (Hệ thống Giao thông Không gian-1) là không gian quỹ đạo đầu tiên của chương trình Tàu con thoi của NASA.
Sau thành công của chương trình Apolo, NASA tiếp tục tìm kiếm những mục tiêu lớn lao tiếp theo. Họ đã xác định mục tiêu đó là tàu con thoi không gian - một phi thuyền tái sử dụng, có khả năng hạ cánh như một tàu lượn và cất cánh như một tên lửa. Con tàu này sẽ mang các thí nghiệm và vệ tinh vào quỹ đạo và có thể tồn tại trong không gian trong nhiều tuần.
STS-1 (Hệ thống Giao thông Không gian-1) là không gian quỹ đạo đầu tiên của chương trình Tàu con thoi của NASA. Một số tàu đưa đón đã được xây dựng, với Columbia là chuyến bay đầu tiên được thử nghiệm.
Khởi hành vào ngày 12/4/1981, tàu tên lửa khổng lồ được điều khiển bởi John Young và Robert L. Crippen đã bay lên quỹ đạo 166 hải lý (tương đương hơn 300km). Con tàu quay trở lại vào ngày 14/4, sau khi đã quay quanh Trái đất 36 lần: Đây là chuyến bay không gian có người lái đầu tiên của Mỹ kể từ dự án thử nghiệm Apollo – Soyuz năm 1975. STS-1 cũng là chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của một phi thuyền mới trong hệ thống tàu con thoi của Mỹ mang theo phi hành đoàn, mặc dù nó đã được kiểm tra bằng khí quyển của quỹ đạo và mặt đất. Sự ra mắt diễn ra vào ngày kỷ niệm 20 năm của chuyến bay vũ trụ đầu tiên của con người. Đây là một sự trùng hợp chứ không phải là một lễ kỷ niệm; một vấn đề kỹ thuật đã khiến STS-1 không thể được phóng lên không trung hai ngày trước đó, như đã được lên kế hoạch.
Con tàu đã lướt xuống đến một căn cứ hạ cánh trên căn cứ không quân Edwards ở California. Lúc đó, con tàu và các bình nhiên liệu của nó được sơn màu trắng thay vì sử dụng các màu sắc biểu tượng màu đen, trắng và cam. (Màu cam là màu nguyên thủy của bọt cách điện không sơn chưa được sơn. Việc giữ nguyên màu sắc nguyên thủy như thế giúp giảm trọng lượng khoảng 270 kg (600 lb).
Trạm không gian quốc tế ISS
Trạm không gian quốc tế (ISS) là một biểu tượng chính của hợp tác quốc tế, bay trong quỹ đạo Trái đất tầm thấp. Người Nga cung cấp mô-đun đầu tiên vào cuối những năm 1990 và trạm này đã được xây dựng trong hơn một thập kỷ. Thành phần đầu tiên được đưa vào quỹ đạo vào năm 1998, mô-đun áp lực cuối cùng được lắp đặt vào năm 2011 và trạm dự kiến sẽ hoạt động đến năm 2028. Việc phát triển và lắp ráp trạm vẫn đang được tiếp tục, với các thành phần được lên lịch khởi động vào năm 2018 và 2019. ISS là vật thể nhân tạo lớn nhất trong quỹ đạo thấp của Trái đất và có thể nhìn thấy bằng mắt thường từ Trái đất ISS bao gồm các mô-đun áp lực, giàn bên ngoài, mảng năng lượng mặt trời và các thành phần khác. Các thành phần của ISS đã được phóng bởi các tên lửa Proton và Soyuz của Nga, và tàu vũ trụ Mỹ.
ISS duy trì quỹ đạo với độ cao từ 330 - 435km, sử dụng động cơ của mô-đun.
ISS phục vụ như một phòng thí nghiệm nghiên cứu môi trường và trọng lực không gian, trong đó các thành viên phi hành đoàn tiến hành các thí nghiệm về sinh học, sinh học con người, vật lý, thiên văn học, khí tượng học và các lĩnh vực khác. Trạm không gian này phù hợp cho việc thử nghiệm các hệ thống và thiết bị tàu vũ trụ cần thiết cho các nhiệm vụ lên Mặt trăng và sao Hỏa. ISS duy trì quỹ đạo với độ cao từ 330 - 435 km, sử dụng động cơ của mô-đun.
Chương trình ISS là một dự án hợp tác giữa năm cơ quan không gian tham gia: NASA, Roscosmos, JAXA, ESA và CSA. Quyền sở hữu và sử dụng trạm không gian được thiết lập bởi các hiệp định và hiệp định liên chính phủ. Nhà ga được chia thành hai phần, Phân đoạn quỹ đạo Nga (ROS) và Phân đoạn quỹ đạo Hoa Kỳ (USOS), được chia sẻ bởi nhiều quốc gia.
Tàu con thoi của NASA là một yếu tố quan trọng trong việc xây dựng nhà ga, có nhiệm vụ đưa các phi hành gia và các bộ phận xây dựng từ khắp nơi trên thế giới vào quỹ đạo để làm việc trên nhà ga. Các phi hành đoàn đầu tiên bắt đầu đến vào đầu những năm 2000. NASA cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu và phát triển các bộ phận và kỹ thuật xây dựng ở đây trên Trái đất. Hiện nay, trạm ISS đang quay quanh ở độ cao hơn 350 km (220 dặm) và đang di chuyển với tốc độ trên 8 km / giây (5 mps). Theo văn bản của bài viết này, có hai người Mỹ và một người Nga đang trên tàu.
Tàu Voyager I và II
Tàu Voyager được trao nhiệm vụ khám phá bốn hành tinh khổng lồ trong hệ mặt trời: Sao Mộc, sao Thổ, sao Hải Vương và sao Thiên Vương.
Ra mắt vào cuối mùa hè năm 1977 trên một tên lửa Titan-Centaur, tàu Voyager được trao nhiệm vụ khám phá bốn hành tinh khổng lồ trong hệ mặt trời: Sao Mộc, sao Thổ, sao Hải Vương và sao Thiên Vương. Từ đây, các tàu thăm dò đã khám phá những hành tinh này trong suốt một thập kỷ.
Voyager II nằm trong heliosheath. Heliosheath là khu vực bên ngoài của quyển nhật quyển, một bong bóng xung quanh các hành tinh được tạo ra bởi gió mặt trời. Với khoảng cách hơn 20 tỷ kilômét (12 tỷ mi) từ Trái đất, Voyager I là đối tượng nhân tạo được phóng lên xa nhất trong lịch sử.
Cả hai tàu thăm dò được trang bị một bản ghi quay đĩa mang một thông điệp từ Trái đất đến bất kỳ nền văn minh ngoài hành tinh nào có thể chặn tàu vũ trụ, vì chúng có thể tồn tại hàng tỷ năm qua không gian giữa các vì sao. Nhưng những con tàu này có thể sẽ sớm ngừng việc này khi chúng đi xa hơn từ Trái đất.