Hóa thạch làm sáng tỏ lịch sử của loài thằn lằn bay cổ đại
Khoảng 147 triệu năm trước, trên bầu trời xứ Bavaria, loài bò sát bay cổ đại pterosaur với sải cánh khoảng 2 mét.
Các nhà khoa học đã khai quật được bộ xương gần như nguyên vẹn của một loại bò sát được đặt tên là Skiphosoura bavarica. Khám phá này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quá trình tiến hóa của loài thằn lằn bay – một trong những sinh vật đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái thời đại của khủng long.
Hình ảnh phục dựng thằn lằn bay Skiphosoura bavarica thuộc kỷ Jura. (Ảnh: Gabriel Ugueto).
Skiphosoura sống vào cuối kỷ Jura. Về mặt giải phẫu, nó là cầu nối giữa những loài thằn lằn bay có đuôi dài và kích thước nhỏ hơn từ khoảng 80 triệu năm trước trong Kỷ Trias, và những loài pterosaur khổng lồ với đuôi ngắn phát triển mạnh mẽ vào Kỷ Phấn trắng - như Quetzalcoatlus, loài có sải cánh rộng tương đương với máy bay chiến đấu F-16.
"Skiphosoura có tầm quan trọng lớn", nhà cổ sinh vật học David Hone từ Đại học Queen Mary London, tác giả chính của nghiên cứu được công bố trên tạp chí Current Biology vào thứ Hai, cho biết vì nó mang lại cái nhìn sâu sắc về quá trình tiến hóa của thằn lằn bay.
Hone cho biết: “Nó cũng giúp chúng tôi làm sáng tỏ những phát hiện về thằn lằn bay khác mà chúng tôi đã thực hiện, giải thích rõ hơn về vị trí của chúng trong hệ thống phân loại của nhóm này và cho phép chúng tôi minh họa sự chuyển đổi từ các dạng sớm đến các dạng muộn - cũng như xác định những đặc điểm nào đã thay đổi và thay đổi theo thứ tự nào”.
Sinh vật này, có tên khoa học nghĩa là "đuôi kiếm từ Bavaria", sở hữu một cái đuôi ngắn và nhọn như mũi kiếm. Điều này thật hiếm gặp vì thông thường các hóa thạch thường bị ép bẹp. Bộ xương được khai quật vào năm 2015 ở bang Bavaria phía đông nam nước Đức.
"Bộ xương của thằn lằn bay rất mỏng manh vì xương của chúng rất mỏng nên chúng thường bị vỡ hoặc nghiền nát khi được bảo tồn", Hone giải thích.
Skiphosoura có thể là một trong những loài bò sát bay lớn nhất trong hệ sinh thái của nó. Hộp sọ của nó dài khoảng 25 cm.
"Mũi xương chỉ kéo dài đến phần trước của mõm, nhưng có một phần mô mềm mở rộng phía trên, khiến nó trông lớn hơn một chút. Chúng tôi vẫn chưa thể xác định chắc chắn, nhưng nó có thể có màu sắc sặc sỡ hoặc hoa văn", Hone nói.
"Răng của nó khá dài và sắc nhọn, dùng để đâm thủng và giữ chặt con mồi", Hone giải thích. "Nó có thể ăn những con mồi nhỏ như thằn lằn, động vật có vú nhỏ, côn trùng lớn và có thể cả cá. Có khả năng nó sống ở môi trường đất liền, như trong rừng".
Thằn lằn bay, họ hàng của khủng long, là nhóm động vật có xương sống đầu tiên phát triển khả năng bay lượn. Chim theo sau khoảng 150 triệu năm trước, và dơi xuất hiện sau đó khoảng 50 triệu năm. Chúng đã bị tuyệt chủng cách đây 66 triệu năm khi một tiểu hành tinh va chạm với Trái đất.
Các nhà cổ sinh vật học chia thằn lằn bay thành hai nhóm chính. Nhóm đầu tiên có đầu ngắn, cổ ngắn, đuôi dài, xương cổ tay ngắn và ngón chân thứ năm ở chân dài. Những con sau này có đầu lớn, cổ dài, đuôi ngắn, cổ tay dài và ngón chân thứ năm ở chân ngắn lại. Những con lớn sau này cũng không có răng.
Việc phát hiện ra Skiphosoura và một loài khác có tên Dearc sgiathanach, sống khoảng 170 triệu năm trước tại Scotland, đã làm sáng tỏ nhiều sự kiện quan trọng trong quá trình tiến hóa của thằn lằn bay. Hai loài này thuộc nhóm chuyển tiếp gọi là darwinopterans, đóng vai trò cầu nối giữa các thằn lằn bay nguyên thủy và những loài thằn lằn bay sau này.
"Skiphosoura nằm trong cây phả hệ giữa loài thằn lằn bay darwinopteran và hậu duệ của chúng là thằn lằn bay pterodactyloid", nhà cổ sinh vật học và đồng tác giả nghiên cứu Adam Fitch từ Bảo tàng Field ở Chicago cho biết.
Trong suốt hơn 150 triệu năm, thằn lằn bay đã định hình vô số vai trò sinh thái, từ những kẻ săn mồi trên không đến những thợ săn trên mặt đất, những vai trò mà sau này chim và các loài họ hàng gần gũi của chúng đã kế thừa.